Mật tông - thần chú uy lực trong Phật Giáo

Mật Tông là một loại pháp môn đặc biệt, được hình thành vào khoảng thế kỷ thứ 5, thứ 6 tại Ấn Độ. Mật Tông là sự giao thoa giữa Ấn Độ giáo và Phật giáo Đại Thừa. Tuy nhiên, khái niệm về Mật Tông vẫn còn rất mông lung và xa lạ đối với nhiều người. Vậy khái niệm Mật Tông là gì? Mật Tông là tà pháp hay chính pháp?

Mật tông là gì?

Mật Tông hay còn được biết đến với tên gọi là Mật giáo Chân ngôn môn, Kim cương, Mật thừa,.. được bắt nguồn tại Ấn Độ vào độ thế kỷ thứ 5, 6. Mật Tông là một trong những pháp tu bí mật của Phật giáo, dạy cho chúng ta về cách “bắt ấn” và “trì chú”,… Pháp tu này có tính chất liễu nghĩa, được căn cứ vào nơi tâm pháp bí truyền.

Mật tông - thần chú uy lực trong Phật Giáo
Mật tông – thần chú uy lực trong Phật Giáo

Mật Tông được chia thành hai phái đó là: Chân ngôn thừa và Kim cương thừa. Sự phát triển của Mật Tông gắn liền với các luận sư nổi tiếng, tiêu biểu có thể kể đến như: Subha Narasimha (Thiên Vô Úy, 637-735), Vajra Bodhi (Kim Cương Trí, 671-741), Amoghavajra (Bất Không Kim Cương, 705-774), Padmasambhava (Liên Hoa Sinh, cuối thế kỷ thứ VIII), Dipankara Srijana (Atisa, cuối thế kỷ thứ XI). Đây đều là những người góp công đưa Mật Tông trở thành một tôn giáo chính của Tây Tạng và sau này phát triển ở nhiều quốc gia Châu Á khác.

Lịch sử hình thành mật tông và sự truyền thừa

Tư tưởng Mật giáo xuất hiện từ thời Phật giáo Nguyên thủy, được thể hiện qua một số câu thần chú trong các bộ luật và trong bộ Kinh Khổng Tước. Từ nửa sau thế kỷ thứ 7 CN, Ấn Độ giáo đã len lỏi vào trong các hệ thống học thuyết, kể cả trong giáo lý Phật giáo mà Phục hưng trở lại, từ đó đã tạo ra sự cạnh tranh mãnh liệt đối với Phật giáo đương thời. 

Lúc bấy giờ, Phật giáo Đại thừa mới chỉ giới hạn trong phạm vi của “kinh viện triết học”, lý luận học vấn, các phạm trù triết học biện luận,…. Vì vậy, Phật giáo Đại thừa đã tự tách mình ra khỏi phần đông quần chúng trong khi những hiện tượng siêu hình và thần bí có ở khắp nơi trên đất Ấn Độ. 

Mật tông thuộc chính đạo hay tà đạo?
Mật tông thuộc chính đạo hay tà đạo?

Thế nên, để thích ứng được với tình thế mới, Phật giáo Đại thừa đã nhanh chóng và tích cực tiếp cận với Ấn độ giáo và Bà-la-môn giáo. Lúc ban đầu khi tiếp xúc, phía Phật giáo có nhiều phản ứng khá kịch liệt, có lúc đã cật lực phê phán những quan niệm nghị chấp về tế tự cầu phúc trừ họa và mật chú. 

Tuy nhiên, vẫn xúc tiến việc hợp lý hóa hay Phật giáo hóa theo tinh thần tùy duyên. Đến cuối cùng, Mật giáo đã dần dần hình thành nên một hệ thống tương đối độc lập trong Phật giáo Đại Thừa.

Theo Mật giáo, sự truyền thừa bắt đầu từ khi Đại Nhật Như Lai truyền cho Kim Cương Bồ tát. Ông đã viết 2 quyển kinh Đại Nhật và Kim Cương Đỉnh, sau đó đem lưu lại trong một ngôi tháp. Long Thụ mở tháp tiếp nhận hai quyển kinh này và được Kim Cương Bồ tát tận tình chỉ dạy. Sau đó, Long Thụ liền truyền cho Long Trí – một cao tăng tại viện Đại học Nalanda.

Giáo nghĩa Phật Giáo Mật Tông
Giáo nghĩa Phật Giáo Mật Tông

Sau khi thực hiện thụ pháp với ngài Long Thụ, ngài Long Trí đã truyền pháp và giáo hóa các nước miền Nam Thiên Trúc và Tích Lan (Sri Lanka). Mật giáo sau đó đã dần sớm được phổ biến về hướng Bắc để sang phía Tây Tạng, Trung Hoa và Nhật Bản; còn về hướng Nam để qua mấy xứ Tích Lan, Miến Điện (Myanmar), Nam Dương (Indonesia), Campuchia, Lào… Một thời gian sau, hai nhánh Mật Giáo chính đã được hình thành đó là: Mật tông Nam Tông và Mật tông Bắc Tông.

Mật tông Trung Quốc

Mật Tông được du nhập vào trong Trung Quốc vào khoảng thế kỷ 7 và trở nên thịnh hành vào thế kỷ 8 với sự xuất hiện của ba vị Cao tăng Ấn Độ sang truyền pháp là Thiện Vô Úy (637-735), Kim Cương Trí (663-723) và Bất Không Kim Cương (705-774). Ba ngày sau đó đã được tôn vinh là Khai Nguyên Tam Đại Sĩ. 

Dòng truyền thừa vào Trung Quốc bắt nguồn từ trung tâm Phật học Na-lan-đà. Cả ba ngài Kim Cương Trí, Thiện Vô Úy và Bất Không Kim Cương từng được Sư Long Trí (vốn là đệ tử của Ngài Long Thọ) truyền pháp cho. Ngài Thiện Vô Uý được coi là tổ sư của Mật tông Trung Hoa và là người dịch Đại Nhật kinh (sa.mahāvairocana-sūtra), là kinh căn bản của tông này ra chữ Hán.

Hành trì mật tông Tây Tạng ở Trung Quốc
Hành trì mật tông Tây Tạng ở Trung Quốc

Mật tông Ấn Độ Chân Ngôn thừa và Kim Cương là hai dòng thừa truyền đến đại sư Nhất Hạnh – đệ tử của Thiện Vô Úy – đã nhập lại làm một ở Trung Quốc. Mật tông tại Trung Quốc vốn rất thịnh hành vào đời Đường, nhưng dần dần suy thoái và về sau này thì tưởng như suy vi hẳn.

Mật tông Tây Tạng 

Trước khi Mật giáo được truyền đến Tây Tạng thì dân chúng nơi này chưa có một tôn giáo nào rõ ràng. Lúc đó, mảnh đất này chỉ có đạo Bon là một đạo giáo cổ truyền duy nhất của dân bản xứ. Thời đó, người ta chỉ mới biết đến thờ cúng chư thần, kể cả hung thần và ác quỷ. Pháp môn Mật tông này được truyền vào Tây Tạng muộn hơn so với Trung Quốc, vào khoảng cuối thế kỷ thứ 8, vua Trisong Detsen (740-786) có thỉnh rước hai vị cao tăng của Ấn Độ là Đại Sư Liên Hoa Sinh (Padma-Jungne) và Antarakshita. Tại nơi này, Kim cương thừa đã kết hợp với Phật giáo Đại thừa sẵn có của Tây Tạng và được gọi là Lạt Ma giáo.

Tây Tạng có bốn tông phái Mật Tông chính bao gồm:

Ý nghĩa biểu tượng mật tông Tây Tạng
Ý nghĩa biểu tượng mật tông Tây Tạng

– Phái Cổ Mật hay còn gọi là Cựu phái (Nyingmapa, Ninh mã phái) được Đại Sư Liên Hoa Sinh (Padma-Jungney) thành lập vào năm 749. Ngài là một giáo sư danh tiếng ở viện đại học Nalanda Phật giáo.

– Phái Kagyu (Ca-nhĩ-cư phái)

– Phái Sakya (Tát-ca phái)

– Phái Hoàng Mạo (Gelugpa, Cách-lỗ phái) được ngài Tsongkhapa, sinh sống ở miền bắc Tây Tạng lập ra vào thế kỷ 14. Lúc đó, Phật giáo bị mê mờ bởi vì nhiều tín điều sai lầm và huyễn hoặc. Sư đã phải dùng tư tưởng cao sáng, cố gắng khuyên nhủ những người tu hành nên tinh tiến tu, tham thiền hỏi đạo, trai giới đạo hạnh. Cuối cùng, cuộc cải cách tôn giáo của ngài cũng có hiệu quả vững bền. Về sau, phái của Sư đổi tên sang Lạt-ma-giáo và trở thành người đứng đầu nhà nước Tây Tạng do Đức Đạt-lai Lạt-ma nắm giữ quyền cai trị dân chúng và trông nom mối đạo.

Ở Tây Tạng, đệ tử chỉ được thu nhận vào Mật tông trừ khi đã thông qua một nghi lễ khai ngộ (initiation) đặc biệt, phải được tiến hành bởi một lạt-ma có tên tuổi. Mật tông tự chủ trương sự tự giác ngộ thông qua hai việc đó là thiền định (meditation) và niệm chân ngôn (mantra). Dòng truyền thừa vào Tây Tạng được xuất phát từ trung tâm Phật học có tên là Vikramasila.

Mật tông Nhật Bản

Mật tông dòng Chân Ngôn thừa được du nhập vào Nhật Bản vào khoảng cuối thế kỷ 8 và đầu thế kỷ 9 bởi hai ngài:

– Truyền giáo: Đại Sư hay còn gọi là Tối Trừng (Dengyo Daishi 767-823), là sơ tổ của Thai Mật.

– Hoằng Pháp: Đại Sư Không Hải, nhà sư đã đi sang Trung Quốc tầm sư học đạo và trở thành môn đệ của Đại sư Huệ Quả, một môn đệ của Bất Không. Sau khi trở về nước và sáng lập ra trường phái Chân ngôn tông (ja. shingon-shū) rất hưng thịnh và dần trở thành là một trong những tông phái quan trọng của nền Phật giáo Nhật Bản.

Pháp môn Phật tông theo tư tưởng Phật Giáo
Pháp môn Phật tông theo tư tưởng Phật Giáo

Các yếu tố quan trọng của Mật tông bao gồm phép niệm chân ngôn, phép bắt ấn và sử dụng Mạn-đồ-la cũng như các lần Quán đỉnh. Mật tông là giáo pháp mà sư phụ truyền đạt cho học trò bằng lời nói (khẩu quyết) và đấy là lý do mà Mật tông không được truyền bá rộng rãi lúc đó. Thật ra, sau này do có nhiều pháp sư lạm dụng sự huyền bí của chân ngôn nên Mật tông dần thu hẹp lại và truyền thụ cho những người có duyên với pháp môn này.

Mật tông Việt Nam

Mật tông vốn được lưu truyền vào Việt Nam từ khá sớm. Theo Thiền uyển tập anh, vào thế kỷ VI, Tỳ Ni Đa Lưu Chi – người Ấn Độ, đã đến Việt Nam và dịch kinh Đại thừa phương quảng tổng trì ở chùa Pháp Vân. Đây được xem là một bộ kinh của Mật giáo, có liên hệ rất nhiều đến Thiền. Vào thời triều Đinh và Tiền Lê, Mật tông đã khá thịnh hành tại Việt Nam lúc bấy giờ. 

Những trụ đá được phát hiện tại Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình vào các năm 1963, 1964, 1978 – xây dựng vào năm 973, thời Đinh; có trụ dựng vào năm 995, thời Lê Đại Hành – đều khắc bản kinh Phật đảnh Tôn thắng Đà La Ni (Usnisa Vijaya dharani), đây là một bản kinh rất phổ biến của Mật giáo, đã chứng minh cho điều đó.

Tư tưởng mật tông Việt Nam
Tư tưởng mật tông Việt Nam

Mật tông thịnh hành không chỉ do mình ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi, mà còn bởi Phật giáo Chiêm Thành, những Tăng sĩ người ngoại quốc và những vị sư người Việt Nam thọ học từ Ấn Độ. Trong đó, ngài Mahamaya là người gốc Chiêm Thành, thuộc đời thứ 10 của thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, từng theo học với ngài Pháp Thuận – Pháp hành sám và trì tụng chú Đại bi – rất nổi tiếng về pháp thuật lúc đó. 

Thiền uyển tập anh cho rằng: ngài đắc pháp Tổng trì Tam muội, thi triển nhiều pháp thuật khiến cho vua Lê Đại Hành và dân chúng đều nể phục. Một thiền sư Việt, ngài tên là Sùng Phạm (mất năm 1087), đời thứ 11 của thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, đã đến Ấn Độ trong suốt chín năm, sau này mở trường dạy tại chùa Pháp Vân. 

Đệ tử của ngài là sư Từ Đạo Hạnh, vốn nổi tiếng về phù chú và sư Trì Bát cũng đã thấm nhuần Mật giáo. Đại Việt sử ký toàn thư cũng ghi chép về một vị Tăng sĩ người Ấn Độ, vào năm 1311, đến nước ta, xưng là 300 tuổi, theo Mật giáo, có thể ngồi xếp bằng nổi trên mặt nước. 

Mật tông thịnh hành không chỉ do mình ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi, mà còn bởi Phật giáo Chiêm Thành, những Tăng sĩ người ngoại quốc và những vị sư người Việt Nam thọ học từ Ấn Độ. Trong đó, ngài Mahamaya là người gốc Chiêm Thành, thuộc đời thứ 10 của thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, từng theo học với ngài Pháp Thuận – Pháp hành sám và trì tụng chú Đại bi – rất nổi tiếng về pháp thuật lúc đó. 

Vũ trụ quan của mật tông là gì?
Vũ trụ quan của mật tông là gì?

Thiền uyển tập anh cho rằng: ngài đắc pháp Tổng trì Tam muội, thi triển nhiều pháp thuật khiến cho vua Lê Đại Hành và dân chúng đều nể phục. Một thiền sư Việt, ngài tên là Sùng Phạm (mất năm 1087), đời thứ 11 của thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, đã đến Ấn Độ trong suốt chín năm, sau này mở trường dạy tại chùa Pháp Vân. Đệ tử của ngài là sư Từ Đạo Hạnh, vốn nổi tiếng về phù chú và sư Trì Bát cũng đã thấm nhuần Mật giáo. 

Đại Việt sử ký toàn thư cũng ghi chép về một vị Tăng sĩ người Ấn Độ, vào năm 1311, đến nước ta, xưng là 300 tuổi, theo Mật giáo, có thể ngồi xếp bằng nổi trên mặt nước. Vào năm 1318, vua Anh Tông đã mời một Tăng sĩ Ấn Độ, tên là Ban Để Đa Ô Sa Thất Lợi đến Việt Nam dịch một bộ kinh Mật giáo tên là Bạch Tán Thần chú kinh.

Trong phía Nam, có vị Hòa Thượng Nhẫn Tế thế danh Nguyễn Văn Tạo, sinh năm 1889 ở thôn An Thánh (nay là thị trấn Lái Thiêu), tỉnh Bình Dương. Ngài hâm mộ đạo Phật từ thuở bé, vào năm 1904, khi 16 tuổi ông đã đến chùa Thiên Tôn ở trong vùng, quy y với Hòa Thượng Ấn Thành – Từ Thiện, pháp danh là Chơn Phổ. Sau khi học hành xong xuôi, ông đi làm việc nhưng vì có bệnh tật nên xin nghỉ để dưỡng bệnh.

Pháp khí mật tông - Pháp khí kim cang đại thừa
Pháp khí mật tông – Pháp khí kim cang đại thừa

Năm 1926, chùa Thiên Thai ở Bà Rịa – Vũng Tàu có giới đàn, ông biết đến liền xin thọ giới do Đầu đàn Hòa Thượng Huệ Đăng truyền giới, ông đã được ban pháp danh Trừng Liễn, pháp hiệu Minh Tịnh, thuộc đời thứ 42 của Thiên Thai Thiền Giáo Tông.

Vào năm 1933, chùa Thiên Tôn mở Đại giới đàn, ông đã xin thọ giới do Đầu dàn Hòa Thượng Ngộ Định – Từ phong truyền giới, ông liền được ban pháp hiệu Nhẫn Tế, đệ tử nối pháp đời thứ 40 thuộc dòng Lâm Tế Chúc Thánh chùa Thiên Tôn.

Ngày 17-4-1935, ông lên tàu sang Ấn độ để chiêm bái và học Phật, sang Nepal để được Xá lợi Phật, rồi sang Tây Tạng vào năm 1936, được yết kiến Nhiếp chánh Quốc vương Tây Tạng, được Lạt ma Nhiếp chánh nhận làm tu sĩ Tây Tạng, ban cho pháp danh là Thubten Osall Lama (Huệ Phát), ông đắc pháp Mật Tông Tây Tạng. Đến ngày 29-10-1936, ông đi khỏi Tây Tạng, trở lại Ấn độ để học hỏi thêm một thời gian rồi mới trở về. Ông đặt chân lại chốn cũ của mình tại Bình Dương ngày 30-6-1937.

Tại Phú Cường có ngôi chùa tên là Bửu Hương, Phật tử tại đây quy ngưỡng nên dâng chùa cho ông. Ông bèn đổi tên thành Tây Tạng tự, từ đó ông tu và tiến hành truyền bá Mật tông, nhưng vì Phật giáo lúc bấy giờ nên Mật Tông của sư Nhẫn Tế không lan rộng, không lập nên Giáo Hội. Hòa thượng Nhẫn Tế viên tịch vào ngày 17-5-1951, thọ 63 tuổi, là một Lama Việt Nam đầu tiên, được chính Nhiếp chánh quốc vương Tây Tạng ấn chứng cho. Ở Huế có Mật tông lưu truyền, vào thập niên 60, Hội Phật Học Nam Việt đã thỉnh chư Tăng từ Huế vào đến chùa Xá Lợi làm lễ Trai Đàn Cứu Tế, những vị Tăng này đã hành lễ theo nghi thức Mật Tông Trung Hoa.

Mật tông có phải một loại Pháp Phật không?
Mật tông có phải một loại Pháp Phật không?

Đặc biệt, vào năm 1992 nhân duyên cát tường hội tụ đủ, theo  lời mời riêng của ông John (Đại sứ Anh tại Bhutan lúc đó), Hòa thượng Thích Viên Thành đang trụ trì Chùa Hương – Hà Nội đời thứ 11, đến viếng thăm Vương quốc Bhutan nhằm hạnh ngộ bậc Kim Cương Thượng sư truyền thừa Drukpa, vốn là Đức Giáo chủ Je Khenpo, và nhận các Giáo pháp Quán đỉnh cốt tủy của truyền thừa Drukpa từ Thầy của mình để hướng dẫn các đệ tử và Phật tử cách thực hành giáo pháp tinh túy và chân chính của Kim Cương thừa. 

Trong suốt cuộc đời độ sinh không biết mệt của mình, với tâm nguyện đem sự thực hành tâm linh lợi ích cho nhân dân Việt Nam, Hòa thượng Thích Viên Thành đã thiết lập mối nhân duyên Phật pháp với Thượng sư Truyền thừa Drukpa, truyền thống Phật giáo Đại thừa – Kim Cương thừa vang danh với khả năng tu chứng và sự thực hành tâm linh thông suốt của các bậc Yogi giác ngộ, với di sản tâm linh quang vinh siêu việt suốt 800 năm phụng sự cho nhân loại và vũ trụ.

Mật tông là tà pháp hay chính pháp?

Có một số tài liệu ghi chép cho rằng Mật Tông là một loại tà đạo, lấy danh nghĩa là thờ Phật nhưng trên thực tế lại thờ tà đạo, chống lại Phật pháp chính thống. Ở những nơi thờ Mật tông vẫn luôn luôn có hình tượng của Đức Phật. Đây là một cách trá hình, làm cho người đời hiểu lầm rằng là nơi thờ Phật. Tuy nhiên, trong thực tế tượng của các Đức Phật đều không linh, chỉ có chỗ thờ Mật tông là có tính linh.

Mật tông - thần chú kim cang tát đỏa
Mật tông – thần chú kim cang tát đỏa

Tà đạo là những tổ chức do con người lập ra, dựa vào các Thượng Phật bậc cao đã thoái hóa phù hộ cho. Họ thường xây các đền chùa thờ dưới sự phù hộ của các Thượng Phật này với mục đích lôi kéo các tín đồ tu Phật đi theo chúng. 

Trong mỗi đền hay chùa đều có thờ một Thượng Phật kể trên, có một Thánh chủ trì là người phàm đã tu lên đến bậc La Hán chỉ đạo hoạt động và hương khói. Nơi thờ Mật tông trong đền, chùa thường được đặt ngầm ở sâu dưới lòng đất hoặc ở trong một không gian riêng ngoài nơi thờ Phật.

Mật tông trong giáo lý của nhà Phật 

Trong giáo lý của nhà Phật, Mật Tông thuộc Bồ Tát Thừa. Khi Phật giáo du nhập vào Trung Hoa, ngài Trí Giả chia giáo pháp đức Phật ra thành tám hệ thống đưa người tu hành tiến đến giác ngộ và giải thoát, bao gồm:

– Đốn giáo

– Tiệm giáo

– Bí Mật giáo

– Bất định giáo

– Tạng giáo

– Thông giáo

– Biệt giáo

– Viên giáo

Trong 8 hệ thống kể trên, hệ thống Mật Giáo đứng vào hàng thứ 3. Trong đời hành đạo Đức Phật có các giáo hóa về những bài pháp về Mật chú, Mật ngữ. Sau này, từ các Mật chú, Mật Ngữ đó, các vị trưởng lão đã đem đi truyền bá rộng rãi, lập thành tông phái và gọi nó là Mật Tông.

Pháp môn Phật tông đại thừa Phật Giáo
Pháp môn Phật tông đại thừa Phật Giáo

Mật tông Tại Việt Nam, có khá nhiều đạo tràng Thiền tông, Tịnh độ tông kết hợp với Mật tông. Mật tông cũng như các tông phái khác của Phật giáo, đều do Đức Phật giáo hóa, đệ tử tu theo, giúp giải thoát cho con người khỏi khổ đau, giải thoát sinh tử khỏi luân hồi.

Tổng kết

Mật tông là chánh pháp, không phải là tà pháp (tà đạo). Tà đạo hiện nay có nhiều hình thức khác nhau. Chúng hoạt động dưới dạng các tổ chức Tà đạo ở các nước châu Á từ trên hai nghìn năm nay, chúng công khai chống lại Đạo Phật, hoặc dưới dạng Mật tông, Tịnh Độ tông, Thiền tông. Tất cả những tổ chức Tà đạo này đều nhắm vào khủng bố những người tín Phật, tìm cách bắt ép họ theo chúng. Vì vậy, khi lên chùa lễ Phật, chúng ta cần chú ý vấn đề này.

Hãy cứ vững tin, một tâm tu Phật thì sẽ được Trời Phật phù hộ, độ trì. Nhưng nếu không có niềm tin Trời Phật, tâm hay lo lắng bị Tà đạo khủng bố thì sẽ bị hành. Tính đến nay Trời Phật đã tiêu diệt khoảng 3 triệu tổ chức Tà đạo trên thế giới, và vẫn tiếp tục truy quét tiếp. Chắc chắn trong tương lai không xa, tệ nạn này sẽ chấm dứt.